I. Tình hình an toàn Vietsovpetro trong những năm gần đây
Theo biểu đồ tai nạn có thể nhận thấy rằng:
Trên các công trình biển không có quy trình an toàn riêng cho từng ngành nghề khác nhau, việc quản lý an toàn còn tùy tiện ví thử một số người biết về động cơ nếu muốn có thể rủ nhau nổ máy xuồng cứu sinh để chạy thử, nên năm 1996 đã có trường hợp 04 đồng chí người Nga bị lật xuồng cứu sinh khi thả xuồng xuống biển. Vì thế số vụ tai nạn lao động có năm tới 17-18 vụ làm chết từ 4-5 người. Từ 2006 việc quản lý an toàn lao động đã đi vào nề nếp, hầu hết các xí nghiệp đã thành lập phòng hoặc ban an toàn và hoạt động có hiệu quả, số vụ TNLĐ giảm nhiều, ý thức đảm bảo an toàn của CBCNV đã được nâng cao năm 2008 và 2009 chỉ xảy ra 05 vụ TNLĐ và chỉ 01 người chết. Tuy nhiên trong những năm gần đây số vụ tai nạn có chiều hướng gia tăng. Các tai nạn xảy ra đều có nguyên nhân chủ quan & khách quan.
1.1 Nguyên nhân khách quan
1.2 Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân này chiếm khoảng 84% số tai nạn.
Nhóm 1:
Do thiếu ý thức chấp hành kỷ luật lao động, đặc biệt là khi làm các công việc như: nâng hạ cẩu hàng, trong môi trường nặng nhọc nguy hiểm, trên cao, với hóa chất độc hại, thường không tuân thủ quy trình an toàn lao động của từng nhóm ngành, ví dụ như không khoanh vùng nguy hiểm, đeo dây an toàn, xắp đặt vật tư sai quy định.
H2-Hình ảnh thiếu ý thức của người lao động
H3-Hình ảnh thiếu ý thức của người lao động
Nhóm 2:
Do công tác tổ chức lao động chưa tốt của trưởng các: đội, phân xưởng, ca kíp, nhóm, tổ vv
Phòng an toàn sức khoẻ môi trường đã đưa vào áp dụng những phương pháp quản lý an toàn mới nhất trên thế giới như : Ghi thẻ STOP CARD, phân tích an toàn công việc JSA. Nhằm nhận biết các mối nguy để phòng tránh cũng như có các biện pháp phòng ngừa trước khi tiến hành công việc. Tuy nhiên vẫn còn có tính hình thức trong việc đưa vào áp dụng các quy trình ghi thẻ Stop card, Phân tích JSA, cụ thể là: Các tổ đội sản xuất không họp bàn nhận biết các mối nguy và các biện pháp phòng ngừa trước khi tiến hành công việc. Ghi thẻ Stop card không tuân thủ đúng 05 bước trong quy trình là : “Quyết định, dừng lại, quan sát, hành động , báo cáo”.
Nhóm 3:
Các cán bộ trực tiếp quản lý an toàn còn mất quá nhiều thời gian vào những việc hành chính báo cáo tháng quý năm trên mọi lĩnh vực như PCCC, hóa chất, rác thải, xét thưởng an toàn quý, tổ chức các lớp học an toàn, làm hồ sơ để Công an cấp chứng nhận được phép sử dụng VLN cho giàn khoan và tàu thuỷ, tiếp các đoàn kiểm tra an toàn hàng quý. Tất cả những thứ kể trên đã làm giảm đáng kể thời gian giám sát và kiểm tra trực tiếp an toàn của CBCNV tại nơi làm việc.
Kết luận:
2.1 Tình hình chung công tác an toàn của xí nghiệp:
Qua vụ tai nạn này chúng ta cũng thấy được cần chấp hành 02 yêu cầu sau:
Kết luận:
H4 - Khóa kho VLN CN trên giàn RP-2 hư mà không thay
H5- Đường ra kho VLNCN trên gìan RP-2 không được quan tâm
2.2 Các nguyên nhân:
a -Nguyên nhân khách quan những vi phạm an toàn ở XN:
b. Nguyên nhân chủ quan:
Phân tích kết quả các lần kiểm tra an toàn cấp 1,2,3,4 từ năm 2010( thời điểm bắt đầu áp dụng Check list cấp 1,2,3) đến nay, chúng ta thấy số lần kiểm tra cấp 1,2 tăng lên, nhưng số vi phạm giảm ít, tính trung bình vi phạm an toàn khi kiểm tra cấp 1 là 1,25 vi phạm/1 ngày/ xn và vi phạm cấp 2 là 0,65/1ngày/xn. Số lần kiểm tra an toàn cấp 3 mỗi quý/1 lần và số vi phạm không giảm. Số vi phạm trong lần kiểm tra an toàn cấp 4 có giảm, nhưng những lỗi lặp lại nhiều lần là xắp xếp vật tư thiết bị trong nhà xưởng nhà kho chưa khoa học, các bình cứu hỏa trong các đội xưởng ít được lau chùi và dán Date kịp thời, các thiết bị điện đôi khi còn thiếu ghi giá trị điện năng. Kho VLN Đất đỏ thường ghi chép sổ sách chưa đầy đủ.
2.4 Thống kê việc phân tích JSA từ 2010-2012
Kết quả phân tích JSA cho ta thấy số thẻ được ghi là tăng lên, số thẻ đạt chất lượng cũng tăng, Hiệu quả cụ thể của việc phân tích JSA là ngăn ngừa tai nạn và sự cố, kết quả này đã góp công vào việc giảm thiểu tai nạn lao động sự cố. Trong năm 2013 và những năm tiếp theo sẽ đưa số liệu bảng phân tích JSA vào tiêu chí xét thưởng an toàn quý, các đội và xưởng sẽ nộp bảng Phôtôcopy về cho CV an toàn cuối mỗi tháng để cuối quý làm xét thưởng.
2. 5 Thống kê việc ghi thẻ Stop card từ 2010-2012
- Năm 2010 số thẻ STOP CARD được ghi là 452 trong đó đạt chất lượng 276. Chiếm 61 %
- Năm 2011 số thẻ STOP CARD được ghi là 717 trong đó đạt chất lượng 463. Chiếm 64.6 %
- Năm 2012 số thẻ STOP CARD được ghi 839 trong đó đạt chất lượng 596. Chiếm 71 %
Phân tích biểu đồ thống kê thẻ Stop card cho ta thấy số lượng ghi thẻ Stop cũng tăng lên hàng năm, nhưng số thẻ đạt chất lượng tốt không tăng, hàng quý khi CV an toàn đưa khoảng 15-20 thẻ thuộc loại tốt lên phòng ATSKMT để xem xét thì hầu như chỉ được 7-8 thẻ là có thuởng, mức thưởng là 10 USD/01 thẻ. Như vậy tỷ lệ thẻ được Phòng ATSKMT thưởng 10 USD chỉ chiếm 0,5 % là tỷ lệ quá thấp so với các xí nghiệp khác trong VSP.
Để khắc phục tình trạng CBCNV chưa quen với việc ghi thẻ Stop cũng như chất lượng thẻ không cao, ghi cho có ghi chúng tôi đề nghị trong năm 2013 cần đưa ra yêu cầu tập huấn lại cho các đội trưởng, đội phó, xưởng trưởng, xưởng phó về cách ghi thẻ Stop, sau đó cuối tháng trưởng các bộ phận sẽ phân loại thẻ tốt và không tốt trước khi nộp về cho CV an toàn. Nếu thực hiện được yêu cầu đề ra thì chắc chắn số thẻ Stop sẽ tốt lên và việc ghi thẻ sẽ đi vào thực chất.
Nhìn chung việc đưa vào áp dụng 02 quy trình là phân tích an toàn công việc (JSA) và ghi thẻ Stop Card đã dần có kết quả, năm 2010 và 2011 số CBCNV biết phân tích JSA và ghi thẻ Stop chỉ được khoảng 50% thì nay sau khi được huấn luyện đã có khoảng 80% biết sử dụng JSA và ghi thẻ Stop, nhưng yêu cầu cơ bản của việc ghi bảng JSA phải là phổ biến nội dung tới từng người tham gia lao động là quan trọng nhất. Ghi thẻ Stop Card là phải tuân thủ đúng 05 bước: Quyết định, dừng lại, quan sát, hành động, báo cáo. Cả 02 loại quy trình này đều có tác dụng ngăn ngừa tai nạn lao động và sự cố.
2.6 Thống kê số người học AT từ 2010-2012
- Năm 2010 số lượt học an toàn tại TTAT là 251
- Năm 2011 số lượt học an toàn tại TTAT là 273
- Năm 2012 số lượt học an toàn tại TTAT là 338
Phân tích nội dung bảng tổng kết số người và các lớp học an toàn ta thấy số người học an toàn đều tăng lên hàng năm, mỗi năm trung bình có 16-18 lớp học an toàn các loại và dải khắp từ tháng 02 đến tháng 12, vì số CBCNV ký vào từ 2010 đến 2013 là 62 người, số CBCNV này cần thiết được tạo thuận lợi để học ngay các lớp an toàn trong năm 2013, vì chính họ là đối tượng còn thiếu về kiến thức an toàn dẫn đến chủ quan trong lao động dễ xảy ra tai nạn sự cố.
Khi kiểm tra kiến thức sử dụng bình cứu hỏa dập lửa trên giàn khoan Cửu long có 01 công nhân bắn mìn không phân biệt được 02 loại bình là bột và khí CO2 tính năng tác dụng của mỗi loại, mặc dù anh thợ đó đã có hàng 10 năm làm việc trên giàn khoan. Điều đó đặt ra cho những người làm công tác truyền đạt kiến thức an toàn cho CBCNV là làm sao để họ áp dụng kiến thức học được vào trong thực tế cuộc sống, khi có phát sinh tình huống sự cố phải biết sử dụng thành thạo các phương tiện phù hợp để khống chế hoặc thoát hiểm.
III. CÁC KIẾN NGHỊ
3.1 Nâng cao ý thức về văn hóa an toàn của CBCNV toàn Xí nghiệp, để mỗi CBCNV hiểu được việc chấp hành kỷ luật lao động là mang lại lợi ích trước tiên cho bản thân, sau đó là uy tín của thương hiệu xí nghiệp.
3.2 Tiến hành tổ chức thi AT cho CBCNV một cách khoa học và có chất lượng, sẽ kiểm tra đột xuất kiến thức an toàn của một số lĩnh vực khi có dấu hiệu CBCNV đó vi phạm.
3.3 Đưa quy trình phân tích JSA và ghi thẻ an toàn Stop Card vào thực chất, nghiêm túc. Trước khi thực hiện đơn hàng hoặc chuẩn máy bắt buộc phải phân tích an toàn công việc.
3.4 Phải nâng cao hiểu biết về sức khoẻ và bệnh nghề nghiệp, vệ sinh môi trường cho mọi người lao động, ngay tại nơi làm việc CBCNV phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về vệ sinh, thực hiện 5S mà XN đã đặt ra.
3.5 Trước yêu cầu đòi hỏi phải sọan thảo lại 15 quy trình an toàn cho từng ngành nghề trong xí nghiệp, soạn thảo và cập nhật mới khoảng 600 câu hỏi thi trắc nghiệm an toàn cho cán bộ kỹ thuật trên máy tính nối mạng thi trên VSP và thi tại XN, soạn thảo khoảng 200 câu hỏi và trả lời để thi trắc nghiệm trên máy tính cho Công nhân, làm chương trình quản lý 12 lớp học an toàn trên máy tính theo Form Matrix của Vietsovpetro, tham gia vào làm dự án cấp chứng chỉ OSHAS 18001 và ISO 14001 của xí nghiệp, cần bổ xung thêm cán bộ quản lý an toàn đảm bảo tiêu chuẩn trẻ, nhanh nhẹn, có kiến thức an toàn Địa vật lý nhưng đồng thời phải có kiến thức tin học và tiếng Nga để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ XN giao cho.
IV- KẾT LUẬN:
Đảm bảo an toàn trong sản xuất là mong muốn của tất cả chúng ta, nhưng nó chỉ được thực hiện nếu tất cả CBCNV trong xí nghiệp ý thức được điều đó, bản thân mỗi người phải tự nhắc nhở mình trước và trong khi làm việc dù đó là công việc bình thường nhỏ nhất. Nếu chúng ta chỉ biết đến an toàn sau mỗi lần phải trả giá về sự khắc phục những hậu quả sau tai nạn lao động hoặc sự cố, thì đã là quá muộn.
Nguyễn Văn Huấn