XÍ NGHIỆP ĐỊA VẬT LÝ GIẾNG KHOAN - BẠN ĐỒNG HÀNH CỦA CÁC NHÀ DẦU KHÍ
Tối ngày 17/4, Quỹ Hỗ trợ Sáng tạo Kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức tổng kết và trao giải Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật toàn quốc lần thứ 14 (2016 -2017) cho 90 giải pháp sáng tạo.
Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Trần Thanh Mẫn và GS.VS Đặng Vũ Minh - Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam - Trưởng ban Tổ chức Hội thi trao Giải Nhất cho các tác giả đoạt giải.
Nhóm kỹ sư Xí nghiệp Địa lý giếng khoan đang nghiên cứu thực hiện công nghệ LOGINTER.
LOGINTER bao gồm ba quy trình lớn sau: Quy trình xử lý minh giải tài liệu khảo sát trạng thái kỹ thuật ống chống/cần khai thác (Quy trình KTOC); Quy trình xử lý minh giải tài liệu địa vật lý giếng khoan trong lát cắt đá móng (Quy trình INTER); Quy trình xử lý minh giải tài liệu sóng siêu âm (Quy trình WAVEFORM).
So với các công trình kỹ thuật đã biết, ”Cụm công trình LOGINTER” đã khắc phục được nhược điểm của các quy trình nước ngoài và trong nước, tích hợp nhiều công đoạn riêng rẽ vào trong quy trình thống nhất. Không những chỉ phát huy được ưu điểm của sản phẩm nước ngoài và sản phẩm tự viết, trong quy trình mới còn bổ sung nhiều tiện ích mới linh hoạt, phù hợp với nhu cầu công việc thực tế và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất, giúp đơn vị có thể tự chủ trong công nghệ xử lý minh giải các mảng số liệu này.
Có thể kể tới một số điểm mới và có tính sáng tạo của quy trình KTOC như xây dựng hình ảnh 3D và mặt cắt ngang (cross section) của ống chống và tạo video từ dữ liệu CAST_V, MIT; thêm chức năng hoạt hình cho ống chống tự động trượt theo độ sâu, đồng thời ghi hoạt hình vào tập tin video phục vụ nghiên cứu và lưu trữ; đề xuất phương pháp xác định bề dày ống và phương pháp xác định độ ăn mòn ống...
Đối với quy trình INTER , đó là góp phần chuẩn hóa các khái niệm cơ bản liên quan đến mô hình cấu trúc không gian rỗng của thân dầu đá móng, từ đó làm cơ sở đưa ra các thuật toán sau này. Người dùng dễ kiểm soát kết quả của từng công đoạn xử lý nên giảm thời gian hoàn thiện sản phẩm; cho phép nghiên cứu lát cắt trong thân dầu đá móng một cách toàn diện hơn, chính xác hơn. Trước khi có quy trình, việc xử lý do một người có trình độ chuyên viên đảm nhiệm, từ khi áp dụng quy trình, một kỹ sư phân tích địa vật lý bậc 6 có thể đảm nhiệm.
Còn quy trình WAVEFORM cho phép kỹ sư xử lý dữ liệu, đặt tham số cửa sổ theo từng khoảng chiều sâu (khoảng nhỏ nhất chiều sâu có thể chỉ là 0.5 mét). Chính vì thế trong mọi trường hợp tính giá trị AMP vẫn chính xác. Đối với việc đánh giá chất lượng gắn kết xi măng, quy trình đưa ra phương pháp đánh giá thống nhất, định lượng từ đó kết quả đánh giá có độ tin cậy và tính ổn định cao…
Sau khi thử nghiệm thành công, LOGINTER đã được áp dụng thường xuyên, liên tục tại Trung tâm Phân tích và Xử lý Số liệu thuộc Xí nghiệp Địa vật lý giếng khoan phục vụ cho toàn bộ các mỏ của Vietsovpetro. Thống kê sơ bộ năm 2014 đã xử lý minh giải cho 64 đơn hàng khảo sát KTOC, 14 giếng có khảo sát địa vật lý tổng hợp lát cắt móng và 129 đơn hàng đo xi măng.
Một số công ty khác như Petronas, Hoàng Long-Hoàn Vũ cũng đã đặt hàng Xí nghiệp thực hiện công nghệ này.
Công trình không chỉ làm tăng chất lượng (độ chính xác) của kết luận, báo cáo mà còn giảm chi phí đối với sản phẩm nhờ tiết giảm chi phí mua phần mềm của nước ngoài cũng như chi phí đào tạo.
|
{jcomments off}1. Mở đầu
Khí hydrocarbon (HC) được chia thành hai loại: khí khô (hay khí nghèo) và khí ẩm (hay khí giầu). Khí khô chứa chủ yếu các thành phần nhẹ CH4 và C2H6 (chiếm 80-90%). Ở điều kiện vỉa và bình tách, khí khô luôn ở trạng thái khí.
Khí ẩm có thành phần chủ yếu từ CH4 đến C4H10 và một phần alcan trung bình từ C5H12 tới C8H18. Ở điều kiện vỉa khí ẩm ở trạng thái khí còn ở bình tách các thành phần trung bình ngưng tụ thành pha lỏng. Khí – condensate (KC) là một dạng khí ẩm mà pha lỏng ngưng tụ được gọi là condensate.
2. Đặc điểm của hệ khí - condensate trong vỉa.
a. Phân tích thành phần KC
Thành phần HC của khí-condensate khác hẳn với thành phần của khí hòa tan trong dầu. Từ đó các tham số PVT như tỷ trọng tương đối của khí (γg), khối lượng phân tử, hệ số nén (z); hệ số thể tích (Bg); mật độ (ρg), độ nhớt (μg); áp suất- nhiệt độ tới hạn (pc-tc) .. cũng khác nhau.
Thực thi trên vi điều khiển PIC 16F876A
Khối I2C có 6 thanh ghi điều khiển hoạt động, đó là:
- SSPCON: Thanh ghi điều khiển
- SSPCON2: Thanh ghi điều khiển thứ 2
- SSPSTAT: Thanh ghi trạng thái
‐ SSPBUF: Thanh ghi bộ đệm truyền nhận
‐ SSPSR: Thanh ghi dịch
‐ SSPADD: Thanh ghi địa chỉ
Đo chiều dày bằng siêu âm là một kỹ thuật kiểm tra không phá huỷ (NDT), nó được sử dụng để đo chiều dày vật liệu từ một bên, ví dụ như đo chiều dày của ống chống giếng khoan từ phía bên trong lòng giếng. Các thiết bị đo chiều dày bằng siêu âm có thể chỉ định để đo chiều dày cho các đối tượng kim loại, nhựa, vật liệu tổng hợp, sợi thuỷ tinh, gốm và thuỷ tinh. Trên thực tế, đo độ dày bằng siêu âm hoàn toàn không phá huỷ mẫu, không cần cắt hoặc phân đoạn. Các vật liệu chống chỉ định khi đo bằng phương pháp siêu âm là gỗ, giấy, bê tông, và bọt xốp...
1. Nguyên lý hoạt động
Siêu âm là sóng âm ở tần số cao hơn giới hạn của con người có thể nghe được. Dải tần số siêu âm trong máy kiểm tra thường sử dụng trong khoảng giữa 200kHz và 20 MHz, trong một số thiết bị đặc biệt người ta có thể sử dụng tần số thấp đến 50kHz hoặc cao tới 200MHz. Dù ở tần số nào, sóng âm cũng là các dao động cơ học truyền qua môi trường dẫn âm theo các định luật cơ bản của vật lý về sóng âm.
Thiết bị đo chiều dày bằng siêu âm hoạt động trên nguyên tắc đo chính xác thời gian giữa hai xung siêu âm liên tiếp nhau vọng về đầu thu do phản xạ từ mặt đáy của chi tiết. Tức là, phép đo chiều dày bằng siêu âm được thực hiện từ một bên theo kỹ thuật đo thời gian giữa 2 xung siêu âm liên tiếp vọng về đầu thu do phản xạ từ mặt phân giới phía xa đầu thu.
Đầu dò của thiết bị vốn là một tinh thể áp điện, khi phát nó sẽ được kích hoạt bởi xung điện rất ngắn có biên độ khoảng 400Vpp, độ rộng vừa đủ để tạo ra chỉ một chu kỳ sóng siêu âm (vài μs). Sóng siêu âm này sẽ truyền vào chi tiết kiểm tra, đập vào mặt đáy và phản xạ trở lại. Một phần năng lượng sóng phản xạ sẽ đi vào đầu dò, trong khi phần lớn năng lượng sóng vẫn tiếp tục phản xạ từ mặt phân giới bên này. Như vậy năng lượng sóng sẽ tiếp tục phản xạ qua lại giữa hai mặt phân giới cho đến khi triệt tiêu hoàn toàn. Do tính chất áp điện, đầu dò sẽ chuyển sóng âm phản xạ thu được thành tín hiệu điện.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua, những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Việc tổ chức phong trào thi đua lao động sáng tạo tại Công đoàn Xí Nghiệp Địa vật lý Giếng Khoan cũng không ngoài việc thực hiện lời dạy đó của Hồ Chủ Tịch.
Có thể nói một trong những đóng góp hiệu quả và thiết thực của Công đoàn XN Địa vật lý GK đối với việc hoàn thành các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của đơn vị đó là việc phát động, tổ chức thành công phong trào thi đua sáng tạo và đây được coi là một phong trào tạo động lực trong quản lý và sản xuất kinh doanh của XN. Trong đó, phong trào phát huy sáng kiến sáng chế hợp lý hóa sản xuất tại XN là minh chứng cho thấy rằng hoạt động công đoàn đã thật sự đồng hành cùng với chính quyền trong việc hoàn thành các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Nó thể hiện qua sự phát triển toàn diện về quy mô và chất lượng công trình của hoạt động sáng kiến sáng chế của Xí Nghiệp Địa vật lý Giếng Khoan.
Các kỹ sư của Vietsovpetro đang làm việc trên giàn khoan
Bám sát sự chỉ đạo của lãnh đạo XN Địa vật lý GK và hưởng ứng phát động của Công đoàn XN với phương châm: Hiệu quả – Thiết thực – Hiện đại, hoạt động sáng kiến sáng chế (SKSC) trong những năm qua đã đi vào đáp ứng thực chất yêu cầu cấp bách về Khoa học – Kỹ Thuật – Công Nghệ của công tác sản xuất trong từng bộ phận và có những điểm mới đáng ghi nhận như sau: Trước hết, về đối tượng: Trong những năm gần đây, hoạt động SKSC đã phổ biến trong toàn bộ các lĩnh vực hoạt động sản xuất của XN. Trước đây ngoài các bộ phận chủ lực thường xuyên duy trì được phong độ trong công tác SKSC lâu nay của XN như Xưởng Sữa chữa &Chuẩn chỉnh máy Địa vật lý, Xưởng sửa chữa thiết bị chuyên dụng, Đội Công nghệ mới, đội kiểm tra khai thác, thì cho đến nay các bộ phận khác như đội carota khí, đội carota tổng hợp, Trung tâm Phân tích và xử lý số liệu, đội thử vỉa, phòng Kinh tế kế hoạch, bộ phận quản lý – hành chính nhân sự đều đã trở thành các nhân tố mới, rất năng động trong công tác SKSC và hợp lý hóa sản xuất. Về đề tài: Trước kia, các giải pháp chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực kỹ thuật như điện tử, cơ khí, CNTT, công nghệ địa vật lý,… thì nay ngay trong các năm gần đây các giải pháp đã phủ đều trong các lĩnh vực hoạt động của XN. Đã có một số giải pháp rất hay thuộc lĩnh vực phân tích tài liệu Địa vật lý như “Hiệu chỉnh ảnh hưởng của thành phần sét khi tính toán độ bão hòa chất lưu đối với lát cắt trầm tích cát-sét”; và các giải pháp thuộc lĩnh vực quản lý điển hình như “giải pháp cải tiến phương thức cấp phát trang bị bảo hộ lao động tại XN Địa vật lý GK”, “giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhân lực các đội sản xuất tại XN Địa vật lý GK”. Về chất lượng công trình và sự hợp tác của nhiều bộ phận: Các đề tài đặt ra thường liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật, để giải quyết được các đề tài này đòi hỏi sự đầu tư lâu dài, sự tham gia của nhiều chuyên gia với các ngành nghề khác nhau, do đó chỉ với lực lượng của một nhóm hoặc một bộ phận thì công việc không thể thực hiện toàn vẹn. Tại Xí nghiệp Địa vật lý GK việc hợp tác giữa các bộ phận để thực hiện đề tài có một vai trò rất lớn. Nhiều công trình điển hình là kết quả của sự hợp tác này. Chất lượng các giải pháp tương đối cao, nội dung của các giải pháp chứa hàm lượng chất xám lớn và ứng dụng nhiều thành phần công nghệ mới. Các giải pháp của xí nghiệp đã được đánh giá cao tại các hội thi sáng tạo kỹ thuật ngành dầu khí Việt Nam. Năm 2010 xí nghiệp tham gia Hội thi sáng tạo kỹ thuật ngành dầu khí Việt Nam với 2 giải pháp: Hệ thống đo cảnh báo giếng khoan đoạt giải nhất; Lò nung mô phỏng nhiệt độ áp suất cao đoạt giải khuyến khích.
Các CBCNV XN Địa Vật lý – Tác giả đạt giải Nhất tại Lễ tổng kết và trao giải
Xí nghiệp đã xây dựng truyền thống và thương hiệu trong các hội thi sáng tạo kĩ thuật (STKT) tại tỉnh BR-VT. Cụ thể, bắt đầu tham gia dự thi từ hội thi năm 2006-2007, Giải pháp “Hệ thống lò nung mô phỏng nhiệt/áp suất giếng khoan” đạt giải nhì. Giải pháp “Hệ thống đánh dấu mét từ tự động” đạt giải nhì hội thi STKT tỉnh BR-VT năm 2008-2009.Tại hội thi STKT tỉnh BR-VT lần 7 (2010-2011) XN đạt một giải nhất và một giải ba. Cuối năm 2011, giải pháp “Hệ thống đo độ lệch và phương vị giếng khoan đường kính 60mm ” đã được Tỉnh BR-VT chọn để gửi đi dự thi Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc lần thứ 11 (2010-2011), đã đạt giải nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc trong lĩnh vực Công nghệ thông tin – Điện tử – Viễn thông. Giải pháp “Thiết kế chế tạo Hệ thống đánh dấu mét từ tự động base 1m” đã đạt giải ba Giải thưởng Sáng tạo Công nghệ Việt Nam năm 2012. Giải pháp “Cụm công trình các thiết bị phụ trợ dịch vụ địa vật lý giếng khoan”, đã đạt giải nhất Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lần thứ 8 năm 2012 – 2013. Và tiếp tục được Tỉnh BR-VT chọn để gửi đi dự thi Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc lần thứ 12 (2012-2013).
Với các giải thưởng đạt được trong những năm qua, có thể nói với việc tổ chức thành công phong trào SKSC chứng minh bằng sự phát triển toàn diện về quy mô và chất lượng công trình của hoạt động sáng kiến sáng chế của Xí Nghiệp Địa vật lý Giếng Khoan, bên cạnh việc mang lại hiệu quả thiết thực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của XN thì việc tạo ra được một phong trào có sức lan tỏa đến mọi lĩnh vực, mọi thành phần trong XN còn mang một ý nghĩa lớn lao hơn rất nhiều, góp phần vào việc hoàn thành các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng năm của Xí Nghiệp Địa vật lý Giếng Khoan và Liên doanh Việt- Nga Vietsovpetro nói chung.
Nguyễn Phong, XN Địa vật lý – Vietsovpetro ( Theo congdoandaukhi.vn)
(Petrotimes) - Dáng người nhỏ, thấp, khuôn mặt có phần khắc khổ nhưng kỹ sư Trần Đại Tính để lại trong tôi ấn tượng rất sâu về một con người có niềm đam mê công việc và sáng kiến mãnh liệt. Niềm đam mê ấy được hình thành từ thời sinh viên ở xứ sở bạch dương đến những năm tháng anh công tác tại Xí nghiệp Địa vật lý Giếng khoan (Vietsovpetro). Và anh cũng là người có nhiều ý tưởng cải tiến, hợp lý hóa sản xuất được đồng nghiệp hiện thực hóa thành công.
PV: Anh công tác ở Vietsovpetro từ bao giờ?
Kỹ sư Trần Đại Tính: Từ khi tốt nghiệp ở Liên Xô (cũ) thì tôi về đây làm việc đến giờ, tính ra đúng là khá lâu, đã 25 năm rồi còn gì. Nhưng tôi đảm nhận chức Xưởng trưởng Xưởng Sửa chữa và chuẩn chỉnh chỉ từ năm 2007 đến nay thôi.
PV: Ấn tượng của anh về xưởng là gì?
Kỹ sư Trần Đại Tính: Có lẽ đặc điểm nổi bật nhất của xưởng là nơi có phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật nhưng nếu tính về mặt doanh thu thì chưa cao. Tuy nhiên dù sửa chữa và chuẩn chỉnh không phải là công đoạn trực tiếp tạo ra doanh thu nhưng xưởng là đơn vị có nhiều đóng góp cho xí nghiệp.
PV: Anh có thể cho biết cụ thể hơn về sửa chữa và chuẩn chỉnh?